Phương pháp Nông nghiệp hữu cơ

Mô hình canh tác hữu cơ ở California, Hoa Kỳ. Lưu ý hàng rào băng xanh.

"Nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống sản xuất để duy trì sức khỏe của đất, hệ sinh thái và con người. Nó dựa trên quá trình sinh thái, đa dạng sinh học và chu trình thích nghi với điều kiện địa phương, chứ không phải là việc sử dụng các yếu tố đầu vào có tác dụng phụ. Nông nghiệp hữu cơ kết hợp truyền thống, đổi mới và khoa học có lợi cho môi trường chung và thúc đẩy các mối quan hệ công bằng, một cuộc sống chất lượng cho tất cả tham gia... "

Phương pháp canh tác hữu cơ kết hợp kiến thức khoa học của sinh thái học và công nghệ hiện đại với canh tác truyền thống thực hành dựa trên các quá trình sinh học tự nhiên. Phương pháp canh tác hữu cơ được nghiên cứu trong các lĩnh vực sinh thái nông nghiệp (agroecology). Trong khi nông nghiệp thường sử dụng thuốc trừ sâu tổng hợp và phân bón tổng hợp tinh khiết hòa tan trong nước, những người nông dân bị hạn chế bởi quy định việc sử dụng thuốc trừ sâu tự nhiên và phân bón. Một ví dụ về một loại thuốc trừ sâu tự nhiên là pyrethrin, được tìm thấy tự nhiên trong hoa cúc. Các phương pháp chủ yếu của nông nghiệp hữu cơ bao gồm luân canh cây trồng, sử dụng phân xanh, phân compost, sử dụng thiên địch, cơ giới canh tác. Những biện pháp này sử dụng môi trường tự nhiên để nâng cao năng suất nông nghiệp: các loại đậu được trồng để cải tạo, cố định đạm trong đất, động vật ăn thịt côn trùng tự nhiên được khuyến khích, cây trồng được luân chuyển để tránh hiện tượng lưu trú mầm sâu bệnh và đổi mới đất, và các vật liệu tự nhiên như axit kali cacbonat[39] và chất hữu cơ phủ đất được sử dụng để kiểm soát bệnh và cỏ dại. Vật nuôi và hạt giống biến đổi gen được loại trừ.

Canh tác hữu cơ khác về cơ bản canh tác thông thường vì việc sử dụng các loại phân bón carbon so với các loại phân bón tổng hợp hòa tan cao và thiên địch thay vì thuốc trừ sâu tổng hợp, canh tác hữu và canh tác thông thường quy mô lớn không hoàn toàn loại trừ lẫn nhau. Kỹ thuật trong các phương pháp phát triển cho nông nghiệp hữu cơ đã được vay mượn của nông nghiệp truyền thống nhiều hơn. Ví dụ như quản lý dịch hại tổng hợp là một chiến lược nhiều mặt mà việc sử dụng phương pháp hữu cơ khác nhau trong kiểm soát dịch hại bất cứ khi nào có thể, trong canh tác thông thường sử dụng thuốc trừ sâu tổng hợp chỉ như là một phương sách cuối cùng.[40]

Đa dạng trồng trọt

Canh tác hữu cơ khuyến khích sự đa dạng cây trồng. Các khoa học về sinh thái nông nghiệp đã cho thấy những lợi ích của xen canh (nhiều loại cây trồng trong cùng một không gian), thường được sử dụng trong nông nghiệp hữu cơ.[41] Trồng nhiều loại rau hỗ trợ một phạm vi rộng lớn hơn của côn trùng có ích, các vi sinh vật đất, và các yếu tố khác để có thể tăng thêm sức khỏe cho trang trại tổng thể. Trồng trọt đa dạng giúp môi trường phát triển mạnh và bảo vệ loài bị tuyệt chủng.[42]

Quản lý đất đai

Canh tác hữu cơ chủ yếu dựa vào sự phân hủy tự nhiên của vật chất hữu cơ, sử dụng các kỹ thuật như ủ phân xanh, phân compost, để thay thế các chất dinh dưỡng lấy từ đất của vụ trước. Quá trình sinh học này, được thúc đẩy bởi các vi sinh vật như nấm rễ, cho phép sản xuất tự nhiên của các chất dinh dưỡng trong đất trong suốt mùa sinh trưởng và đã được gọi là biến đất thành thức ăn để nuôi cây. Canh tác hữu cơ sử dụng một loạt các phương pháp để cải thiện độ phì đất, bao gồm cả luân canh cây trồng, hạn chế làm đất, sử dụng phân compost. Bằng cách giảm công đoạn làm đất thì đất sẽ không bị đảo ngược và tiếp xúc với không khí, ít carbon được thoát vào khí quyển dẫn đến cacbon hữu cơ trong đất nhiều hơn. Điều này có thêm lợi ích của việc cô lập carbon, có thể làm giảm lượng khí nhà kính và giúp đảo ngược sự thay đổi khí hậu.

Cây cần nitơ, phốt pho, kali, vi lượng và các quan hệ cộng sinh với nấm hoặc các sinh vật khác để phát triển mạnh, đặc biệt là mức độ yêu càu đồng bộ hóa các điều kiện trên vào đúng thời điểm nhất (khi cây cần nó nhất) là một thách thức lớn đối với người nông dân.[43] Luân canh và phân xanh, cây cải tạo đất (cây che phủ) giúp cung cấp đạm thông qua các cây họ đậu, trong đó nitơ từ không khí được cố định thông qua sự cộng sinh với vi khuẩn rhizobial. Cây trồng xen có chức năng được sử dụng để kiểm soát côn trùng và bệnh tật, cũng có thể làm tăng chất dinh dưỡng trong đất. Tuy nhiên sự cạnh tranh dinh dưỡng giữa các cây họ đậu và các cây trồng chủ đạo có thể trở thành vấn đề và khoảng cách giữa các hàng cây trồng là bắt buộc tuân thủ lưu ý. Vật rơi rụng từ cây trồng có thể được trả lại đất và các loài cây trồng khác nhau đem lại một lượng nitơ khác nhau, có khả năng trợ giúp đồng bộ hóa.[43] Nông dân canh tác hữu cơ cũng sử dụng phân động vật, một số phân bón chế biến dạng bột khoáng như phosphate và các loại bột trầm tích biển (một hình thức tự nhiên của kali) cung cấp kali. Cùng những phương pháp giúp kiểm soát xói mòn. Trong một số trường hợp pH có thể cần phải điều chỉnh. Thay đổi pH tự nhiên bằng các phương pháp dùng vôi và lưu huỳnh, nhưng ở Mỹ một số hợp chất như sắt sulfat, nhôm sulfate, magnesium sulfate, và Bo hòa tan cũng được cho phép trong canh tác hữu cơ.[44]:43

Trang trại hỗn hợp với cả gia súc và cây trồng có thể hoạt động hợp lý, theo đó đất tập hợp khả năng cung cấp thức ăn vật nuôi thông qua tăng trưởng của một số loài cây cố định đạm được sử dụng như cỏ ba lá màu trắng (chẽ ba bò hoa trắng) hoặc cỏ linh lăng (Medicago sativa) và phát triển cây công nghiệp hoặc các loại ngũ cốc khi khả năng phát triển được hình thành. Trang trại mà không chăn nuôi ("stockless") có thể thấy khó khăn hơn để duy trì độ phì của đất vì có thể phải dựa nhiều hơn vào yếu tố đầu vào bên ngoài như mua phân bón cũng như các loại hạt giống cây đậu hạt và cây phủ xanh, cây phân xanh (mặc dù các loại hạt đậu hạt có thể cải tạo nitơ hạn chế vì chúng được thu hoạch phục vụ chăn nuôi). Trang trại trồng trọt trái cây và rau quả trong điều kiện được bảo vệ thường xuyên thay thế nhiều hơn từ các đầu vào bên ngoài.[43]

Nghiên cứu đặc điểm sinh học các sinh vật đất và đất đã được chứng minh có lợi cho nông nghiệp hữu cơ. Giống vi khuẩn và nấm phân hủy hóa chất, vật chất thực vật và chất thải động vật thành các chất dinh dưỡng trong đất sản xuất, chúng đem lại chất lượng và sản lượng tốt hơn cho cây trồng trong tương lai.[45] Năng suất thấp hơn đáng kể ít hoặc không có bổ sung chất dinh dưỡng do giảm tập đoàn vi khuẩn đất. Tăng phân cải thiện hoạt động sinh học, cung cấp một hệ thống đất lành mạnh, giúp hiệu quả canh tác và năng suất cao hơn.[46]

Quản lý cỏ dại

Quản lý cỏ dại hữu cơ là thúc đẩy ức chế cỏ dại chứ không phải là loại bỏ chúng. Quản lý có dại bằng cách tăng cường các cách tăng cường khả năng cạnh tranh của cây trồng hoặc là trồng xen cây trồng tạo tương tác phytotoxic thực vật tác động lên cỏ dại.[47] Nông dân canh tác hữu cơ tích hợp kinh nghiệm truyền thống, sinh học, cơ khí, vật lý và chiến thuật hóa học để quản lý cỏ dại mà không cần thuốc diệt cỏ nhân tạo.

Tiêu chuẩn hữu cơ đòi hỏi luân canh cây trồng hàng năm, có nghĩa là một loài cây duy nhất không thể phát triển trong cùng một vị trí mà không có luân phiên xen kẽ loài cây trồng khác nhau.[48] Luân canh cây trồng hữu cơ thường xuyên bao gồm cây che phủ ức chế cỏ dại và các loại cây trồng có chu kỳ sống khác nhau để ngăn cỏ dại kết hợp với một cây trồng cụ thể.[47] Hiện nay có nhiều nghiên cứu đang tiếp tục phát triển các phương pháp hữu cơ để thúc đẩy sự tăng trưởng của vi sinh vật tự nhiên ức chế sự phát triển hoặc nảy mầm của cỏ dại.[49]

Kiến thức bản địa khác được sử dụng để nâng cao khả năng cạnh tranh cây trồng và giảm áp lực cỏ dại bao gồm lựa chọn giống cây trồng cạnh tranh, trồng mật độ cao, khoảng cách giữa các hàng chặt chẽ, và trồng muộn (trồng cây chuyển sang từ vườn ươm) để tạo điều kiện cho cây trồng phát triển trước.[47]

Thực hành kiểm soát cỏ dại bằng cơ giới và vật lý được sử dụng trên các trang trại hữu cơ có thể được thực hiện một số biện pháp kỹ thuật như:[50]

  • Làm đất – Xáo chuyển đất giữa các loại cây trồng để kết hợp tàn dư cây trồng và cải tạo đất; loại bỏ cỏ dại phát triển hiện tại và chuẩn bị luống trồng; xới chuyển đất sau khi gieo hạt để diệt cỏ dại, (dùng cho việc gieo trồng theo hàng);
  • Nhổ và cắt - Loại bỏ tăng trưởng của cỏ dại;
  • Đốt - Sử dụng nhiệt và lửa để diệt cỏ dại;
  • Che phủ - Chặn cỏ dại xuất hiện với các vật liệu hữu cơ, tấm phủ plastic hoặc vải, nilon.[51]

Một số nhà phê bình, trong đó có tài liệu xuất bản vào năm 1997 bởi David Pimentel của Đại học Cornell[52] mô tả các tác nhân của xói mòn đất trên toàn thế giới, đã tăng lo ngại rằng canh tác góp phần vào sự xói mòn.[53] FAO và các tổ chức khác đã chủ trương canh tác "không cày" đối với cả hai loại canh tác nông nghiệp thường và canh tác hữu cơ, họ cũng chỉ ra kỹ thuật luân canh cây trồng được sử dụng trong canh tác hữu cơ là biện pháp "không cày" tuyệt vời.[53][54] Một nghiên cứu được xuất bản vào năm 2005 bởi Pimentel và đồng nghiệp[55] khẳng định luân canh và sử dụng băng xanh điển hình của nông nghiệp hữu cơ làm giảm xói mòn đất, dịch hại và giảm sử dụng thuốc trừ sâu. Một số hóa chất có nguồn gốc tự nhiên được phép sử dụng trong thuốc diệt cỏ hữu cơ. Chúng bao gồm các công thức nhất định của axit axetic, bột gluten ngô và các loại tinh dầu. Một vài lựa chọn bioherbicides dựa trên nấm gây bệnh cũng được phát triển.Tuy nhiên, tại thời điểm này, thuốc diệt cỏ hữu cơ và bioherbicides đóng một vai trò nhỏ trong các công cụ kiểm soát cỏ dại hữu cơ.[50]

Cỏ dại có thể được kiểm soát bằng cách dùng động vật ăn cỏ. Ví dụ, ngỗng đã được sử dụng thành công để loại bỏ một loạt cỏ dại ở các nông trang cây trồng hữu cơ bao gồm: bông, dâu tây, thuốc lá, và ngô,[56] điều này làm sống lại việc những hình thức nuôi ngỗng giữ bông phổ biến ở miền nam nước Mỹ trước năm 1950. Tương tự như vậy, một số nông dân trồng lúa cũng sử dụng vịt và cá nước ngọt ruộng lúa để ăn cả cỏ dại và côn trùng.[57]

Kiểm soát các sinh vật khác

Cây Chloroxylon swietenia được sử dụng kiểm soát dịch hại trong mô hình canh tác lúa gạo hữu cơ ở Ấn Độ

Các sinh vật ngoài cỏ dại gây ra vấn đề trên các trang trại hữu cơ bao gồm động vật chân đốt (ví dụ, côn trùng, ve), tuyến trùng, nấm và vi khuẩn, vi rút,... Biện pháp hữu khuyến cáo áp dụng nhưng không giới hạn:

  • Thu hút động vật ăn thịt có ích để kiểm soát sâu bệnh bằng cách tạo cho chúng vườn cây hoặc môi trường sống thay thế, thường là hình thức của một băng xanh hoặc đám ruộng cây làm ngân hàng động vật (thường là bọ cánh cứng).
  • Khuyến khích các vi sinh vật có lợi;
  • Luân canh cây trồng đến các địa điểm khác nhau qua các vụ, trong một số năm làm gián đoạn chu kỳ sinh sản sâu bệnh;
  • Trồng cây hoang dã hoặc cây có sức đề kháng cao để đẩy lùi hoặc tác động đến sự phát triển quần thể sâu bệnh.
  • Sử dụng hàng rào bảo vệ cây trồng trong thời kỳ di cư sâu bệnh;
  • Sử dụng thuốc trừ sâu sinh học và thuốc diệt cỏ sinh học
  • Sử dụng biện pháp tạo va làm cũ luống cây trồng để nảy mầm và tiêu diệt cỏ dại trước khi trồng.[58]
  • Vệ sinh để hạn chế môi trường sống sâu bệnh;
  • Sử dụng bẫy côn trùng để giám sát và kiểm soát quần thể côn trùng.
  • Sử dụng các rào cản vật lý, chẳng hạn như lưới.

Ví dụ về các loài côn trùng ăn thịt có ích bao gồm các chi Orius, chi bọ mắt lớn (Geocoris), và một ít loài thuộc họ Bọ rùa (Coccinellidae) (thường có xu hướng bay đi), tất cả đều ăn một loạt các loài sâu rệp gây hại cho cây trồng. Các loài thuộc họ Bọ cánh màng có gân (Neuroptera) cũng rất hiệu quả nhưng chúng thường bay đi. Các loài bọ ngựa (Mantodea) lại di chuyển chậm hơn và ăn ít hơn rất nhiều. Ong bắp cày ký sinh có hiệu quả đối với con mồi mà họ đã chọn, nhưng giống như tất cả các loài côn trùng nhỏ khác thì chúng có thể kém hiệu quả ở ngoài trời vì gió sẽ ảnh hưởng đến chuyển động của chúng.[44]:66–90

Đương nhiên có thể sử dụng thuốc trừ sâu có các nguồn gốc cho phép trên các trang trại hữu cơ: Bacillus thuringiensis (độc tố vi khuẩn), kim cúc (chiết xuất hoa cúc), spinosad (một chất chuyển hóa của vi khuẩn), Sầu đâu (chiết xuất cây Azadirachta indica) và rotenon (một chiết xuất từ rễ cây họ đậu). Chỉ có chưa tới 10% nông dân sử dụng thuốc trừ sâu thường xuyên, một khảo sát cho thấy chỉ có 5,3% số người trồng rau ở California sử dụng rotenon trong khi 1,7% sử dụng kim cúc.[59]:26 Những thuốc trừ sâu trong danh mục cho phép không phải là luôn luôn an toàn hơn hoặc thân thiện với môi trường hơn so với thuốc trừ sâu tổng hợp và chúng cũng có thể sẽ gây ra thiệt hại.[44]:92 Các tiêu chí chính cho thuốc trừ sâu hữu cơ là chúng phải có nguồn gốc tự nhiên, tuy nhiên một số chất có nguồn gốc tự nhiên cũng đã gây nhiều tranh cãi. Thuốc trừ sâu tự nhiên gây tranh cãi bao gồm rotenon, đồng, sulfat nicotine, và pyrethrum.[60][61] Rotenon và kim cúc đặc biệt gây tranh cãi vì nhiều ý kiến cho rằng chúng diệt trừ sâu bọ hại bằng bằng cách tấn công các hệ thống thần kinh, giống như hầu hết các loại thuốc trừ sâu thông thường. Rotenon vô cùng độc hại cho cá[62] và có thể gây ra các triệu chứng giống như bệnh Parkinson ở một số loài động vật có vú.[63][64] Mặc dù kim cúc (pyrethrins tự nhiên) có hiệu quả hơn chống lại côn trùng khi sử dụng với piperonyl butoxide (chất làm chậm sự suy thoái của các pyrethrins),[65] nhưng tiêu chuẩn hữu cơ thường không cho phép sử dụng các chất này.[66][67][68]

Nguồn gốc thuốc diệt nấm được phép sử dụng trên các trang trại hữu cơ bao gồm các vi khuẩn Bacillus subtilis, Bacillus pumilus và nấmTrichoderma harzianum. Đây thường là những loại thuốc hiệu quả đối với các bệnh ảnh hưởng đến rễ. Nước ủ phân trộn hữu cơ (phân compost) có chứa một hỗn hợp của các vi khuẩn có lợi, có thể tấn công hoặc gây ra cạnh tranh với tác nhân gây bệnh nào đó,[69] tuy nhiên không phải công thức và phương pháp ủ lấy nước phân compost nào cũng đem lại kết quả phù hợp cho cây trồng, trái lại đôi khi chúng chưa nhiều vi khuẩn độc hại.[70]

Một số loại thuốc trừ sâu có nguồn gốc tự nhiên không được phép để sử dụng trên các trang trại hữu cơ. Chúng bao gồm sulfate nicotine, asen, và strychnine.[71]

Thuốc trừ sâu tổng hợp được phép sử dụng trên các trang trại hữu cơ bao gồm xà phòng diệt côn trùng và các loại dầu làm vườn dùng cho quản lý tiêu diệt côn trùng; dung dịch Bordeaux, đồng hydroxit và natri bicarbonate dùng cho quản lý tiêu diệt nấm.[71] Đồng sunfat và dung dịch Bordeaux hỗn hợp (đồng sunfat hòa nước vôi) được chấp thuận cho sử dụng hữu cơ tại mỗi nước khác nhau,[66][67][71] có thể là vấn đề bảo đảm sức khỏe môi trường hơn một số loại thuốc trừ nấm tổng hợp dissallowed trong canh tác hữu cơ.[72][73] Những quan ngại khác nhau tương tự thường thấy đối với đồng hydroxit. Lặp đi lặp lại ứng dụng đồng sunfat hoặc đồng hydroxit như một loại thuốc diệt nấm cuối cùng có thể dẫn đến sự tích tụ đồng đến mức độc hại trong đất,[74] những nguyên tắc để tránh sự tích lũy quá mức của đồng trong đất xuất hiện trong các tiêu chuẩn hữu cơ khác nhau ở mỗi nơi khác nhau. Vấn đề môi trường cho nhiều loại sinh vật phát sinh ở mức trung bình sử dụng các chất như vậy đối với một số loại cây trồng.[75] Trong các nước thuộc Liên minh châu Âu, việc thay thế thuốc diệt nấm chứa đồng trong sản xuất hữu cơ đang là một chính sách được ưu tiên nghiên cứu.[76][77]

Chăn nuôi

Đối với chăn nuôi, vắc-xin bị hạn chế hoặc cấm trong canh tác hữu cơ ở nhiều nơi

Chăn nuôi gia súc, gia cầm, thịt, sữa và trứng, là một hoạt động truyền thống hỗ trợ bổ sung cho phát triển canh tác. Trang trại hữu cơ cố gắng để cung cấp cho động vật điều kiện sống tự nhiên và thức ăn tốt nhất. Chứng nhận hữu cơ là cơ sở để kiểm chứng rằng gia súc được nuôi theo quy định hữu cơ của bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) trong suốt cuộc đời của chúng.[78] Các quy định này bao gồm các yêu cầu tất cả các thức ăn động vật phải được chứng nhận hữu cơ.

Chăn nuôi hữu cơ có thể được và phải được điều trị bằng thuốc khi bị bệnh, nhưng không được phép sử dụng thuốc để thúc đẩy tăng trưởng, thức ăn của chúng phải được chứng nhận hữu cơ, và chúng phải được chủ động ăn một cách tự nhiên.[79]:19ff[80]

Ngoài ra, trâu, bò, ngựa và một số loại gia súc đã từng là các đối tượng cung cấp sức kéo cho trang trại, sinh sản, cung cấp phân chuồng, … Đối với phương pháp nuôi trồng hữu cơ thì những hoạt động trên được hạn chế tới mức nhỏ nhất.

Biến đổi gen

Một đặc điểm quan trọng của nông nghiệp hữu cơ là sự từ chối các đối tượng thực vật và động vật biến đổi gen. Vào ngày 19 Tháng 10 năm 1998, các đại biểu tại Hội nghị khoa học lần thứ 12 IFOAM đã ban hành Tuyên bố Plata Mardel, nơi có hơn 600 đại biểu đến từ hơn 60 quốc gia bỏ phiếu nhất trí để loại trừ việc sử dụng các sinh vật biến đổi gen trong sản xuất lương thực và nông nghiệp.

Mặc dù phản đối mạnh mẽ việc sử dụng bất kỳ công nghệ chuyển gen trong nông nghiệp hữu, các nhà nghiên cứu nông nghiệp Luis Herrera-Estrella và Ariel Alvarez-Morales vẫn tiếp tục ủng hộ sự kết hợp của công nghệ chuyển gen vào nông nghiệp hữu cơ là tối ưu có ý nghĩa đối với nông nghiệp bền vững, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.[81] Cũng giống như hai tác giả trên, nhà khoa học Pamela Ronald ủng hộ xem và xây dựng công nghệ sinh học nhất quán với các nguyên tắc hữu cơ.[82]

Mặc dù công nghệ biển đổi gen (GMO) được loại trừ khỏi nông nghiệp hữu cơ nhưng có nhiều lo ngại rằng các hạt phấn hoa từ cây trồng biến đổi gen sẽ ngày càng tác động đến các giống cây truyền thống, chúng sẽ khiến các bộ gen thâm nhập vào gen của các cây trồng hữu cơ, để ngăn cản điều này ngoài tự nhiên là rất khó. Quy định về hạn chế cây trồng biến đổi gen ở mỗi nước là có mức độ khác nhau.

Dụng cụ

Người nông dân thường sử dụng nhiều nông cụ truyền thống cho sản xuất nông nghiệp ở nông trại. Do các mục tiêu phát triển bền vững trong nông nghiệp hữu cơ, nông dân canh tác hữu cơ sẽ cố gắng giảm thiểu sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch. Trên thế giới đang phát triển các trang trại hữu cơ nhỏ, công cụ thường được hạn chế dùng đến các loại máy móc cầm tay và động cơ diesel. Một số nông dân canh tác hữu cơ đã sử dụng năng lượng tái tạo ở nông trại[83] và thậm chí có thể sử dụng agrivoltaics (hệ thống năng lượng nông trại) hay sản xuất năng lượng tại chỗ. Một nghiên cứu gần đây[84] đánh giá việc sử dụng phần mềm nguồn mở và máy in 3-D (gọi là hệ thống RepRaps, sử dụng nhựa sinh học axit polylactic (PLA)) ở các trang trại hữu cơ. PLA là vật liệu có khả năng phân hủy sinh học mạnh mẽ và có thể tái chế nhựa nhiệt dẻo, thích hợp cho một loạt các công cụ xuất ở nông trại trong các khâu: dụng cụ cầm tay, dụng cụ chế biến thực phẩm, dụng cụ quản lý động vật, dụng cụ quản lý nguồn điện nước và thủy canh.[84] Phần mềm nguồn mở giúp người nông dân có thể điều khiển các thiết bị trên nông trang của mình, điều này được thể hiện rõ qua mã nguồn mở sinh thái học (Open Source Ecology - OSE).[85]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nông nghiệp hữu cơ http://193.194.138.42/en/Sustainability-Claims-Por... http://thenewdaily.com.au/life/2014/08/19/hidden-d... http://www.ecosensus.ca/hole2005.pdf http://www.omafra.gov.on.ca/english/crops/facts/09... http://www.betriebsmittelliste.ch/fileadmin/docume... http://www.acresusa.com/eco-agriculture/ http://www.csmonitor.com/2003/0220/p11s01-sten.htm... http://www.economist.com/daily/columns/greenview/d... //books.google.com/books?id=25QnL3-njZQC%22Organic //books.google.com/books?id=B6tBN1dyC9oC&pg=PR2